Lịch sử hình thành và
quá trình phát triển:
Thời Bắc thuộc, do đặc điểm địa lý và quan hệ chính trị, nền y dược
Việt Nam có sự giao thoa và chịu nhiều ảnh hưởng từ nền y dược
Trung Quốc. Qua trao đổi học hỏi
những vị thuốc, kinh nghiệm chữa bệnh kết hợp với các loại thảo dược bản địa đặc
thù đã tạo nền móng đầu tiên cho mảng Đông dược nói riêng và ngành dược Việt
Nam nói chung.
Năm 938, thời kì Bắc thuộc kết
thúc, ngành y dược Việt Nam tiếp tục
phát triển. Từ thời Lý, Trần, Hồ, Hậu
Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn, nền y dược dân độc đã được chú trọng đáng kể. Từ
năm 1858, trong thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã đưa Tây y vào nước ta, năm 1902 mở trường đào tạo
Dược sĩ Hà Nội, tổ chức một số bệnh viện, bệnh xá ở các tỉnh, thành phố, phủ,
huyện. Dưới sức ép của Pháp, nhiều dược
sĩ không được phép mở cửa hiệu, viện nghiên cứu khai thác dược liệu trong nước
cũng bị chèn ép, mảng Đông dược bị kìm hãm phát triển.
Giai đoạn 1946 – 1954 kháng chiến
chống Pháp ngành dược vừa thiếu dược sĩ, công nhân, trang thiết bị, vật tư, vừa
thiếu kinh nghiệm và tổ chức quản lí. Ngành chủ yếu phát triển theo hướng tự lực
cánh sinh, tận dụng mọi nguyên liệu sẵn có từ cây thuốc trong nước. Thời kì này, Việt Nam đã sản xuất được thuốc
chiến thương, Filatov, ống tiêm, kìm kẹp
máu, dao mổ, kim khâu... Cũng ở trong giai đoạn này, tại Thanh Hóa, chính quyền
đã mở các lớp trung cấp dược, ở chiến khu Việt Bắc có viện đại học dược và mở
nhiều lớp dược tá ở các liên khu.
Giai đoạn 1954 –
1975, miền Bắc tiến hành cải tạo ngành dược tự doanh, xây dựng phát triển ngành dược quốc
doanh. Năm 1965, nhu cầu sử dụng thuốc tăng nhanh, nên hầu hết các xã đều có phong
trào trồng và sử dụng cây thuốc nam, hình thành một mạng lưới sản xuất dược hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương
để có thể sản xuất thuốc men theo từng vùng theo hướng tự cung tự cấp.
Giai đoạn sau 1975, ngành dược
phát triển qua 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1 (1975 – 1990): Ngành
dược Việt Nam giai đoạn này chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, sức sản
xuất không đáng kể. Mức tiêu thụ bình quân thuốc trên đầu người thời kỳ này đạt
vào khoảng 0,5 - 1USD/năm. Do thuốc
trong thời kỳ này khan hiếm nên tiêu chuẩn
chất lượng thuốc trong sử dụng chưa được chú trọng.
Giai đoạn 2 (1990 – 2005): Các nhà thuốc và các công ty sản xuất
thuốc phát triển rất nhanh, sản phẩm dược đa dạng, phong phú hơn. Đặc biệt sau khi có Nghị quyết Trung ương IV
và Quyết định 58 của Thủ tướng chính phủ
về công nghiệp dược đã có những bước phát triển đáng kể, đảm bảo phần lớn nhu cầu
về thuốc chữa bệnh, khắc phục được tình trạng thiếuthuốc của nhiều năm trước
đây. Giai đoạn này cũng chứng kiến quá trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp dược
quốc doanh theo chủ trương cổ phần hóa của nhà nước.
Figure 1.2: Hội nhập với Quốc tế đang là vấn đề sống còn
với các doanh nghiệp Generic Việt Nam
|
Giai đoạn 3 (từ năm 2005 đến
nay): Các công ty dược đẩy mạnh quá
trình nâng cấp tiêu chuẩn sản xuất lên GMP-ASEAN à GMP- WHO à
PIC/S à
EU-GMP… nhằm thích ứng với yêu cầu về chất lượng ngày càng gia tăng và phù hợp
với quá trình toàn cầu hóa của ngành dược Việt Nam trong quá trình hội nhập với
thế giới.
Nguồn: Báo cáo ngành dược phẩm,
Tr.11, Fpt securities, 04/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét